6/recent/ticker-posts

Dưỡng sinh là gì? Cách luyện tập để Phòng và Chữa bệnh - ĐÀO GIA Y VIỆN

I. ĐẠI CƯƠNG 

Dưỡng sinh là một phương pháp tập luyện nhằm giữ gìn sức khoẻ, nâng cao thể lực, tăng cường sức chịu đựng và khả năng thích ứng của cơ thể với môi trường sống, rèn luyện bản lĩnh của con người góp phần nâng cao tuổi thọ. Phương pháp này đã được YHCT phương Đông nói đến từ vài nghìn năm về trước: ở Trung Quốc nói đến phương pháp này với tên gọi “khí công” (Qigong), ở Ấn Độ có phương pháp Yoga... 

Tập luyện dưỡng sinh còn có thể phòng ngừa và làm thuyên giảm được một số chứng bệnh mạn tính và phục hồi chức năng của cơ thể sau khi bị bệnh. Dưỡng sinh có nhiều phương pháp tập luyện, mỗi phương pháp gồm nhiều động tác và bài tập khác nhau.

Phương pháp luận của phương pháp dưỡng sinh dựa trên cơ sở khoa học nghiên cứu về con người và đặc biệt là lối sống của con người, mối liên quan giữa xã hội, thiên nhiên và các tác nhân gây bệnh cho con người. Phương pháp dưỡng sinh chính là phương pháp qua tìm hiểu quy luật sống của con người tìm ra cách khắc phục những thói hư, tật xấu tác hại đến sức khoẻ của con người, xây dựng lối sống lành mạnh để giữ gìn sức khoẻ.

Từ những năm 1960 đến nay, Bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng (nguyên Bộ trưởng Bộ Y tế Việt Nam, Viện trưởng Viện YHCT Việt Nam, Chủ nhiệm Bộ cụ môn YHCT Trường Đại học Y Hà Nội) và cộng sự đã kế thừa, phát triển và phổ biến rộng rãi trong toàn quốc. Dưới đây xin giới thiệu một cách tóm tắt phương pháp tập luyện dưỡng sinh theo sách Phương pháp dưỡng sinh do chính cụ viết. Cho đến nay, sách đã được các nhà xuất bản in tới lần thứ chín (Nhà xuất bản Y học Hà Nội in lần đầu tháng 11 năm 1975; lần hai in tại thành phố Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1977; lần thứ ba năm 1981 cũng do nhà in thành phố Hồ Chí Minh; lần thứ tự do Ty Văn hóa và Thông tin Long An năm 1982, lần thứ chú Long năm 1985; các lần thứ bảy năm 1991, lần thứ tám năm 1994, lần thứ chín năm 1995, Nhà xuất bản Y học thành phố Hồ Chí Minh). 

Chưa kể tới nhiều khóa học dưỡng sinh ở các tỉnh, chỉ tính riêng các khóa học dưỡng sinh ở Viện YHCT Việt Nam - Hà Nội đã có tới hàng trăm khóa học, mỗi khóa có vài chục học viên. Những học viên này đều là những cán bộ, công nhân đã nghỉ hưu có mắc một số bệnh mạn tính. Họ đến Viện YHCT học dưỡng sinh và tập luyện dưỡng sinh để chữa bệnh cho mình.

II. NỘI DUNG CỦA PHƯƠNG PHÁP DƯỠNG SINH 

Phương pháp dưỡng sinh gồm tám phép: 

1. Phép thư giãn để cho thần kinh đỡ căng thẳng, lấy lại sức làm việc. 
2. Phép thở gồm có các phép thở để luyện thần kinh, luyện khí huyết, luyện có trở ngại để tăng cường sức. 
3. Phép luyện thái độ tâm thần trong cuộc sống. 
4. Phép ăn uống, không sử dụng chất kích thích và thải chất độc. 
5. Các phương pháp tự xoa bóp, luyện Yoga, thể dục để làm cho khí huyết lưu thông. 
6. Phép điều hòa lao động, giải trí, nghỉ ngơi, ngủ. 
7. Phép vệ sinh bảo vệ con người chống lại những yếu tố xâm hại con người như: vi khuẩn, chất độc, ký sinh trùng; các yếu tố vật lý, hóa học... 
8. Quy luật sống lâu và sống có ích: muốn đạt được kết quả, điều cốt yếu phải tập kiên trì đều đặn và chọn một cách tập phù hợp với tình hình sức khoẻ, bệnh tật, phù hợp với điều kiện công tác và sinh hoạt của mình.

III. THỞ BỐN THÌ THEO PHƯƠNG PHÁP DƯỠNG SINH CỦA BÁC SĨ NGUYỄN VĂN HƯỞNG

1. Đại cương 

Thở bốn thì là kỹ thuật cơ bản luyện khí của phương pháp dưỡng sinh của Bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng, là bí quyết của sự thành công của quá trình tự luyện tập điều khiển hai trạng thái ức chế và hưng phấn của vỏ não nhằm luyện thần kinh để có giấc ngủ tốt, khí huyết chạy đều, tăng cường sức khoẻ.
luyện tập điều khiển hai trạng thái ức chế và hưng phấn của vỏ não nhằm luyện thần kinh để có giấc ngủ tốt, khí huyết chạy đều, tăng cường sức khoẻ.

2. Tư thế luyện thở 

Có thể luyện thở bốn thì ở một trong bốn tư thế: nằm ngửa, nằm chổng mông, nằm nghiêng và tư thế ngồi. 

3. Các cách thở 

Có ba cách thở: 

- Thở bốn thì có hai thì dương (+ +), hai thì âm (- -), có kê mông và giơ chân giao động để chủ yếu là luyện thần kinh (ức chế và hưng phấn) nhằm mục đích có giấc ngủ tốt. 
- Thở bốn thì tích cực, bốn thì đều dương (++++) để chủ yếu là luyện khí huyết chạy đều. Thở có trở ngại để tăng sức khoẻ. 
- Những người mới tập nên tập theo cách đầu tiên

4. Mục đích và tác dụng của thở bốn thì 

Thở bốn thì có dương có âm, có kê mông (từ thấp đến cao) và giơ chân dao động. Có âm có dương là để luyện thần kinh, luyện hai quá trình hưng phấn và ức chế, luyện sự thay đổi linh hoạt giữa hai quá trình ấy, chủ động về xúc cảm, vui buồn, giận ghét, lo lắng, sợ sệt, kinh hoàng..., làm cho hơi thở ngày càng mạnh lên để khí huyết chạy đều, không bị ứ trệ. Lúc đầu chưa giữ lâu được thì 2 thì cũng nên rút ngắn thì 2 và thì 4 cho bằng nhau. 
Để tập thở cho ngày càng hoàn chỉnh hơn cần chú ý tập hai thì dương cho thật dương, hai thì âm cho thật âm (dương ở chỗ các cơ bắp phải co thắt tối đa để hơi đến tối đa; âm ở chỗ thư giãn hoàn toàn buông xuôi, không cơ nào co thắt, tập lâu thành phản xạ) và hưng phấn phân biệt, ức chế phân biệt để điều khiển cơ thở. 

5. Cách thở bốn thì có hại thì dương (++), hai thì âm (--) 

Theo công thức (phải thuộc lòng): 
- Thì 1: Hít vào đều, sâu, tối đa để chủ động về lưu lượng khí cho đều và bảo đảm hơi vào sâu tối đa đến tận cùng các phế nang ở các vùng đỉnh phổi, thân phổi và đáy phổi; ngực nở tối đa, bụng phình song phải đảm bảo cứng, nghĩa là các cơ bụng, cơ hông, cơ đáy chậu phản ứng trở lại cơ hoành để kìm tạng phủ không bung ra, áp suất (+) ở bụng và (-) ở phổi, máu chạy về tim dễ dàng “hít vào ngực nở, bụng căng”. 
- Thì 2: Giữ hơi, là thì khó nhất và phức tạp nhất vì nó tăng hiệu suất của hơi thở, hoàn chỉnh việc trao đổi O2, và CO2,, tăng cường sức chủ động của cơ thế, luyện ý chí của con người. Thanh quản phải mở, cơ hoành và các cơ lồng ngực đều co thắt tối đa, giơ chân dao động rồi để chân xuống “giữ hơi cố gắng hít thêm”. 
+ Thì 3: Thở ra không kìm, không thúc. Tất cả các cơ buông xuôi, thở ra là nhờ sức nặng của tính thun của lồng ngực và bụng làm cho nó xẹp xuống, nên thở thoải mái, tự nhiên như “con cò đáp xuống ruộng + Thì 4: Thư giãn hoàn toàn, có cảm giác nặng và ấm, tự kỷ ám thị (tay chân tôi nặng và ấm, toàn thân tôi nặng và ấm). Thời gian 1/4 hơi thở “nghỉ thời, nặng ấm tay chân”. 

6. Tập thư giãn 

Thư nghĩa là trong đầu óc lúc nào cũng thư thái; giãn nghĩa là nơi giãn như sợi xích xe đạp bị giãn. Thư giãn nghĩa là ở gốc trung tâm vỏ nào phải thư thái, ở ngọn các cơ vân và cơ trơn thì phải giãn ra. Gốc thư thái thì ngọn sẽ giãn tốt, mà ngọn giãn tốt thì giúp cho gốc thư thái.
Vỏ não và cơ bắp có mối quan hệ khăng khít. Khi tinh thần căng thẳng, cơ bắp cũng căng thẳng và ngược lại, tinh thần thoải mái thì cơ bắp mềm mại Phương pháp thư giãn là chủ động làm cho cơ bắp mềm giãn để tinh thần được thư thái, do đó ổn định được hoạt động thần kinh và điều hoà rối loạn hoạt động nội tạng. 
Thư giãn là phép luyện ức chế bằng cách làm giãn, làm mềm, buông lỏng các cơ vân và cơ trơn để làm bớt căng thẳng thần kinh. 

Cách tập: 
- Sau khi tập luyện hoặc làm việc mệt nhọc, tinh thần căng thẳng thì dành đôi ba phút ngồi hoặc nằm (khi đã tập quen thì bất cứ lúc nào và ở tư thế nào) lần lượt làm những động tác hít sâu; đồng thời ưỡn ngực, ưỡn cổ và lên gân tay 1 hay 2 giây. 
- Tiếp đó thở ra và buông thẳng 2 tay. Tập trung ý vào bàn tay mình thuận nhất và tự nói thầm: “tay tôi mềm mại” khi hít vào thì cũng nói như thế: “tay tôi mềm mại”. Khi thở ra thì nhủ “nằng nặng” nhủ 3 - 4 lần thở khi đã cảm thấy bàn tay mình thống nặng thì tập trung ý vào hơi thở và tự nhủ “lòng tôi thanh thản” (khi hít vào thì nhủ “lòng tôi” thở ra thì thủ “thanh thản”), nhủ 10 - 15 lần thở. Trở lại trạng thái bình thường có thể vươn vai, lắc cổ hoặc vặn mình rồi tiếp tục làm việc. Thư giãn cơ thể làm toàn thân hoặc từng phần cơ thể. 
Câu nói tự nhủ có thể thay đổi tùy theo từng người, thí dụ “tay tội nằng nặng”, “người tôi ấm nóng”...
Trên đây là bài tập thư giãn của một cách tập. Trong khi luyện thở phải tập trung ý, theo dõi nhịp thở hoạt động; khi tập vận động phải tập trung ý theo dõi nhịp thở hoặc phải tập trung ý theo dõi những cơ khớp đang căng giãn. Đó cùng là một cách thư giãn.

IV. LUYỆN HÌNH TRONG PHƯƠNG PHÁP DƯỠNG SINH CỦA BÁC SĨ NGUYỄN VĂN HƯỞNG

 Luyện hình bao gồm phương pháp vận động cơ, khớp và tự xoa bóp. 

1. Vận động cơ khớp 

- Nguyên tắc: tập theo chức năng của từng bộ phận từng cơ khớp. 
Thí dụ: chức năng chủ yếu của chân là bám đất chắc và di chuyển nhanh, cột sống phải vững nhưng cúi, ngửa xoay phải dẻo và nhanh. Khi tập luyện phải kết hợp với luyện thở và tập trung ý. Vận động cơ khớp phải căng giãn hết mức nhưng vừa sức, từ thấp đến cao và tuỳ tình hình sức khoẻ, bệnh tật mà chọn những động tác thích hợp. 
- Tập vận động: có rất nhiều cách, người ta có thể chọn mấy cách sau 
+ Đi bộ, chạy, bơi. 
+ Tập 12 động tác thể dục buổi sáng theo bài “chào mặt trời” (khi tập phải chú ý kết hợp nhịp thở và tập trung ý trong từng động tác): 
• Động tác 1: bàn tay chắp trước ngực, sát xương ức, lưng thẳng, thở ra hết. Tập trung ý để khởi động. 
• Động tác 2: đưa tay lên trên và ưỡn lưng hết mức, hai ngón tay cái sát vào nhau, hít vào, tập trung ý vào vùng thắt lưng. 
• Động tác 3: gập người lại, tay chạm đất, đầu chạm gối, thở ra, tập trung ý vào bụng đang co lại. 
• Động tác 4: hai tay chạm đất, đưa chân phải về phía sau, đầu và ngực ưỡn, hít vào hết mức, tập trung ý vào cơ cổ đang căng thẳng. 
• Động tác 5: đưa cả chân trái về phía sau, đưa mông lên cao, người gập thành hình chữ V ngược, mắt nhìn vào rốn, cấm đè lên xương ức; ngừng thở, tập trung ý vào vùng rốn. 3.11 
• Động tác 6: chao người xuống tư thế nằm sấp, bụng không chạm đất, chỉ có hai bàn tay, hai đầu gối và hai hàng ngón chân chạm đất, thở ra, tập trung ý vào động tác hạ người xuống. 
• Động tác 7: ưỡn cổ và ngực hết mức. Hít sâu, tập trung ý vào các đốt sống thắt lưng đang bị dồn lại.
• Động tác 8: đưa mông lên cao trở về tư thế chữ V ngược, ngừng thở t tập trung ý như động tác 5. • Động tác 9: đưa chân phải lên, đầu và ngực ưỡn, ngửa như động tác 4, ngừng thở tập trung ý vào cơ cổ.
• Động tác 10: trở về như động tác 3. 
• Động tác 11: vươn tay, ưỡn ngực như động tác 2.
• Động tác 12: đưa 2 tay chắp trước ngực như động tác 1.

2. Tự xoa bóp

 Thường làm vào buổi sáng trước hoặc sau lúc tập vận động và cũng có thể làm vào buổi tối trước khi đi ngủ. 
- Bàn tay: xoa hai lòng bàn tay vào nhau cho ấm nóng rồi tay này xoa mu tay kia vận động cổ tay và các ngón tay. 
- Mặt gáy: hai bàn tay áp vào hai má, xát ngược lên trán, đỉnh đầu, sau - gáy và vòng ra má và tiếp tục như trên 10 lần. 
- Đầu tóc: gãi đầu từ phía trước ra sau gáy vòng lại thái dương, trở ra trước và lần lượt gãi hết diện da đầu. Sau đó, dùng móng các ngón tay miết da đầu từ phía trước ra phía sau tựa như chải tóc. 
- Mắt: xoa vòng quanh hố mắt 10 lần, vuốt mí mắt trên từ sống mũi ra - ngoài 10 lần. Sau đó, đưa ngón tay ra phía trước mắt, nhìn chăm chú vào các ngón tay rồi đưa các ngón tay từ từ ra xa, lại đưa tay gần gốc mũi, làm 10 lần. 
- Tai: vuốt vành tai 10 lần, sau đó dùng gan bàn tay ấn chặt vào tai, đột nhiên bung tay ra, làm như thế 10 lần. 
- Gan bàn tay vẫn bịt chặt lỗ tai, bốn ngón tay bám chặt vào xương chẩm, đưa ngón trỏ lên tựa vào lưng ngón giữa, bật mạnh ngón trỏ đập vào xương chẩm (nghe thấy bùng bùng trong tai 5 lần). 
- Mũi: dùng ngón tay cái hoặc ngón trỏ miết hai bên sống mũi và đỉnh mũi 10 lần.
- Răng: hai hàm răng gõ vào nhau từ 10 - 20 lần. 
- Lưỡi: lưỡi để phía ngoài răng cửa quay vòng tròn, đồng thời miết vào mặt răng, mắt nhìn theo lưỡi đảo vòng, mỗi chiều quay 10 lần. 
- Chi trên: hai tay trên xát từ nách và lòng bàn tay vòng qua mu tay lên đỉnh xát 10 lần. 
- Ngực, bàn tay phải đặt trên ngực phải xát mạnh chéo sang hàng bên trái, sau đó đổi tay làm như trên, mỗi lần xát 5 lần. 
- Bụng: xoa thành đường vòng quanh rốn theo chiều kim đồng hồ, xoa 10 lần. 
- Lưng: xát mạnh từ thắt lưng tới mông, xát 10 lần. 
- Chân: xát từ mặt ngoài cẳng chân đến mu bàn chân vòng vào lòng bàn chân ngược lên đến bẹn, xát 10 lần, sau đó dạy đầu gối 10 lần; rồi 2 bàn chân cọ xát vào nhau, chân nọ xát mu bàn chân kia.



Để kết luận chương này, chúng tôi xin trích mấy câu thơ hướng dẫn về phương pháp dưỡng sinh của các bậc tôn sư Việt Nam như sau: 
Cụ Tuệ Tĩnh: 
“Bế tinh, dưỡng khí, tồn thần 
Thanh tâm, quả dục, thủ chân, luyện hình”... 
Cụ Hải Thượng Lãn Ông: 
“Nội thương bệnh chứng phát sinh 
Thường do xúc động thất tình gây nên. 
Lợi dục - đầu mọi thất tình, 
Chặn lòng mong muốn thì mình được an. 
Cần nên tiết dục thanh tâm 
Giữ lòng liêm chính chẳng tham tiền tài”.

Để đặt lịch khám tại ĐÀO GIA Y VIỆN, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE/ZALO: 0967536386 hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY.

Quý khách có thể xem thêm bài viết về Châm cứu là gì? Vì sao châm cứu có thể chữa bệnh - ĐÀO GIA Y VIỆN trong Y học cổ truyền tại:

https://daogiayvien.blogspot.com/2023/07/cham-cuu-la-gi-vi-sao-cham-cuu-co-chua.html



Đăng nhận xét

0 Nhận xét