1. Protein niệu là gì?
Protein niệu là cụm từ để chỉ sự có mặt của protein trong nước tiểu. Bình thường trong nước tiểu không có hoặc có rất ít protein do cơ chế tái hấp thu protein ở thận.
Protein niệu sinh lý là khi mức protein xuất hiện trong nước tiểu dưới 30mg/24 giờ, với microalbumin ( là protein niệu vi thể ) niệu từ 30-300mg/ 24 giờ.
Protein niệu thực sự khi lượng protein trong nước tiểu trên 300mg/ 24 giờ.
Protein niệu xuất hiện thường xuyên là biểu hiện các bệnh lý về thận tiết niệu hoặc do có bất thường về protein huyết tương.
Do bất thường về protein huyết tương: Xuất hiện lượng lớn protein trong lượng phân tử thấp, chúng được lọc qua các cầu thận, khi lượng protein này được lọc quá mức tái hấp thu ở các ống thận thì sẽ bị đào thải ra ngoài và xuất hiện nhiều trong nước tiểu. Gặp trong bệnh đa u tủy xương, bệnh tan huyết (tiểu ra hemoglobin) hay do hủy cơ vân (tiểu ra myoglobin).
Bệnh thận tiết niệu phân chia mức độ protein niệu để có hướng chẩn đoán bệnh:
Khi lượng protein niệu thấp < 1g/24h: Gặp trong các bệnh như viêm thận bể thận, viêm thận kẽ, thận đa nang, xơ mạch thận, tăng huyết áp.
Khi lượng protein niệu từ 1-3g/24h: Gặp trong các bệnh lý cầu thận viêm cầu thận cấp và mạn hay bệnh thận đái tháo đường, thường kèm theo các triệu chứng phù mềm, tiểu ít hay vô niệu, tăng huyết áp, tiểu máu...
Khi protein niệu cao > 3,5g/24h: Biểu hiện bệnh hội chứng thận hư, thường bao gồm các triệu chứng như giảm protein máu(<60g/l), tăng cholesterol và triglycerid, bệnh nhân phù nhiều,to và phù rất nhanh (do hạ protein máu làm giảm áp lực keo huyết tương, lượng dịch đẩy ra mô kẽ dẫn tới phù nhiều và nhanh).
2. Điều trị bằng YHCT
PHƯƠNG KINH NGHIỆM TRỊ PROTEIN NIỆU (ĐẶNG THIẾT ĐÀO)
Cấu thành: Hoàng kỳ 30g, Quy giáp 30g, Sơn dược 15g, Ý dĩ nhân 15g, Ngọc mễ tu 30g.
Cách dùng: sắc nước uống.
Công hiệu: kiện tỳ cố thận, lợi thấp hoá trọc.
Chủ trị: protein niệu thuộc tỳ thận lưỡng hư, thấp trọc ủng trệ.
Phương giải: trong phương thuốc dùng lượng lớn Hoàng kỳ, Sơn dược kiện tỳ bổ khí; Quy giáp vào kinh tâm, can, thận, chuyên về tư thận dưỡng can, còn có thể dưỡng huyết bổ tâm; Ý dĩ nhân lợi thuỷ mà không thương chính; Ngọc mễ tu ngọt nhạt thẩm tiết, công chuyên lợi thuỷ thẩm thấp tiêu thũng. Tổng quan toàn phương, kiện tỳ cố thận, lợi thấp hoá trọc, hai hướng cùng trị, protein niệu từ trừ.
-----------------
SƠ PHONG THANG (DIÊN ĐỨC HINH)
Cấu thành: Tử uyển sống 9g, Phù bình 9g, Thuyền thoái 6g, Kinh giới 9g, Phòng phong 9g, Nguyên tuy tử 9g, Tây hà liễu 9g, Bạc hà 4,5g, Ý dĩ nhân căn 30g.
Cách dùng: sắc nước uống.
Công hiệu: thông điều phế khí, phân thanh hoá trọc.
Chủ trị: protein niệu.
Phương giải: trong phương thuốc Tử uyển sống tính ấm mà không nóng, chất nhuận mà không táo, chuyên khai tiết phế uất, kèm sơ phế gia khí huyết; phù bình cay lạnh, lên có thể khai tuyên phế khí, phát hãn thấu tà, xuống có thể thông điều thuỷ đạo, lợi thuỷ tiêu thũng, hai thuốc cùng là quân dược. Thần dược Kinh giới, Phòng phong, Nguyên tuy tử, Tây hà liễu cay mà hơi ấm, chuyên về phát biểu tán phong, tuyên thông phế khí; Bạc hà, Thuyền thoái khinh thanh lương tán, chuyên về sơ tấn phế kinh phong nhiệt. Tá dược Ý dĩ nhân căn lợi thuỷ thẩm thấp.
----------------
THAY HOOC MÔN PHƯƠNG (DIÊN ĐỨC HINH)
Cấu thành: Hà thủ ô, Sơn dược, Hoàng kỳ, Thái tử sâm, Cam thảo, Tử hà xa.
Cách dùng: các thuốc trên lượng bằng nhau, hợp thành tán tễ, mỗi lần uống 1,5g, uống bằng nước ấm, mỗi ngày 3 lần.
Công hiệu: bổ phế kiện tỳ ích thận.
Chủ trị: người hội chứng thận hư có protein niệu. Chứng thấy vùng mặt, chi dưới hoặc toàn thân phù thũng, mệt mỏi vô lực, tiểu ít, tiểu đục, lưỡi nhợt rêu trắng, mạch trần tế.
Phương giải: thuốc đông y trị hội chứng thận hư protein niệu, phân tích từ hiện tượng, trước đây thường cho rằng trong nước tiểu có lượng lớn vật chất tinh vi thất thoát là phong tàng của thận thất chức, biểu hiện của tinh khí ngoại tiết, trị từ cố thận sáp tinh bắt đầu, nhưng khó có thể thành công. Vấn đề là trong nước tiểu ngoài protein ra, còn có nhiều loại tế bào lắng bã, mấu chốt là thanh trọc không phân, chỉ chú ý một mặt của tạng phủ hư tổn, mà bỏ sót mặt khác của trọc ứ nội đình. Hội chứng thận hư là biểu hiện bản hư tiêu thực, trọc khí không thể tiết ra ngoài, thanh khí ngược lại thấm lọt, trọc khí không đi, tinh vi bất cốt, chính cái gọi là "tà không đi thì chính không an". Thuỷ trọc cùng xuống, là hoạt động bài niệu bình thường, thuỷ trọc kèm tinh mà xuống, chỉ dùng cố sáp, không phải kế sách tốt. Diên đại sư điều trị hội chứng thận hư, chú trọng khí hoá, người khí hoá mà khỏi, khỏi thuận tự nhiên, cố sáp cũng ngẫu nhiên có được, khỏi có miễn cưỡng. Nguyên nhân thanh trọc lẫn lộn khá là phức tạp, chủ yếu là do công năng tạng phủ thất điều. Thận chủ khai hạp, tỳ chủ thăng thanh, hội chứng thận hư có chứng protein huyết thấp nghiêm trọng, có thể khiến áp suất keo thẩm thấu giảm sút, hình thành thuỷ thũng, nó biểu hiện làm thuỷ thũng lâu ngày không rút, cơ phu bóng nhẫy, ấn thấy như bùn, tinh thần đờ đẫn, sắc mặt không tươi, thường do tỳ hư không thể chế thuỷ, thuỷ trạch vọng hành, đầu tiên cần phải cứu tỳ, tỳ được kiện vận, để hồi phục công năng thăng giáng, mấu chốt xoay chuyển, đình thuỷ tự hành. Nếu do thận dương bất chấn, tinh huyết theo âm hoá, thuỷ thũng thường thuộc hư bại, không ôn bổ thận dương, khó hồi phục cục diện dương hoà. Thế nên nói người tỳ hư không được lại dùng phá khí, người thận hư cần cận thận dùng thuốc phá thuỷ, chân khí chân thuỷ đối với dự hậu và phòng ngừa tái phát, nâng cao hiệu quả lâu dài đều có tác dụng vô cùng lớn. Phế chủ khí của toàn thân, mà chế tiết hành được, phế khí thông điều, khí hoá đương chức, nhất là đối với thuỷ tinh không thể phân bố, ủng tụ bàng quang, người bệnh tiểu ít mà protein có lúc thấm xuống, kết hợp các pháp vận tỳ ôn thận có thể nâng cao tốc độ cải thiện protein niệu. Thế nên nói, tuyên túc của phế khí, thăng giáng của tỳ khí, khai hạp của thận khí là 3 yếu tố lớn của khí hoá.
Hooc môn hưng thịnh, mở ra con đường mới trong điều trị một số bệnh, tác dụng chủ yếu của nó là ức chế miễn dịch bất thường của cơ thể, hiệu quả rõ rệt. Nhưng nó dễ ảnh hưởng đến công năng miễn dịch bình thường của cơ thể, cũng được đa số đồng thuận, xuất hiện hậu di chứng do dùng thuốc càng khiến nhiều người sợ hãi. Diên đại sư thử từ phương diện thuốc đông y tìm kiếm các loại dược liệu cùng loại, để dùng thay thế, tự sáng tạo Thay hooc môn phương, các thuốc chú trọng điều tiết 3 tạng phế, tỳ, thận, sử dụng trong hội chứng thận hư, hiệu quả rõ rệt. Trong quá trình sử dụng Thay hooc môn phương, không có phản ứng khó chịu.
TĂNG GIẢM THANH TÂM LIÊN TỬ THANG (TRƯỜNG KỲ)
Cấu thành: Hoàng kỳ 30g, Đảng sâm 20g, Thạch liên tử 15g, Địa cốt bì 15g, Sài hồ 15g, Hoàng cầm 15g, Phục linh 15g, Mạch động 15g, Xa tiền tử (bọc vải) 15g, Bạch hoa xà thiệt thảo 30g, Ích mẫu thảo 30g, Cam thảo 10g.
Cách dùng: sắc nước uống.
Công hiệu: ích khí dưỡng âm, thanh lợi thấp nhiệt.
Chủ trị: bệnh thận mạn tính do khí âm lưỡng hư, thấp nhiệt lưu luyến gây ra protein niệu duy trì không biến mất, protein huyết tương thấp. Chứng thấy toàn thân vô lực, thiếu khí lười nói, miệng khô lưỡi ráo, ăn ít khó tiêu, ngũ tâm phiền nhiệt, không thuỷ thũng hoặc thuỷ thũng khá nhẹ, lưỡi hồng nhạt hoặc đầu lưỡi đỏ, rêu trắng mỏng hoặc rêu trắng hơi nhớt, mạch tế sác hoặc hoạt.
Phương giải: thanh tâm liên tử ẩm là tễ thanh bổ cùng dùng, nguyên phương chủ trị lâm trọc băng đới. Protein niệu từ góc nhìn của đông y thuộc thuỷ cốc tinh vi dồn xuống, dùng phương này điều trị bệnh thận protein niệu, bổ khí và thanh lợi thấp nhiệt cùng dùng, có hiệu quả khá tốt. Trong phương Đảng sâm, Hoàng kỳ, Cam thảo bổ khí kiện tỳ, trợ khí hoá để trị protein niệu do khí hư bất nhiếp, nhưng khí hư kèm nhiệt, nên dùng Địa cốt bì thoái hư nhiệt của can thận, Hoàng cầm, Mạch đông, Thạch liên tử thanh nhiệt của tâm phế, Phục linh, Xa tiền tử lợi thấp, Ích mẫu thảo hoạt huyết lợi thấp, Bạch hoa xà thiệt thảo thanh nhiệt giải độc. Hợp lại có tác dụng ích khí dưỡng âm, thanh lợi thấp nhiệt, hay chỗ bổ trung ngụ thanh.
---------------
GIA VỊ THĂNG DƯƠNG ÍCH VỊ THANG (TRƯƠNG KỲ)
Cấu thành: Hoàng kỳ 30g, Đảng sâm 20g, Bạch truật 15g, Hoàng liên 10g, Bác hạ 15g, Trần bì 15g, Phục linh 15g, Trạch tả 15g, Phòng phong 10g, Khương hoạt, 10g, Độc hoạt 10g, Sài hồ 15g, Bạch thược 15g, Sinh khương 15g, Đại tao 3 quả, Cam thảo 10g.
Cách dùng: sắc nước uống.
Công hiệu: bổ khí kiện tỳ, thăng dương trừ thấp.
Chủ trị: viêm cầu thận mạn tính hoặc hội chứng thận hư phù thững sau khi rút đi protein niệu lượng lớn thuộc chứng tỳ vị hư nhược, thanh dương không thăng, thấp tà lưu luyến. Lâm sàng biểu hiện người nặng mệt mỏi, sắc mặt úa vàng, ăn uống vô vị, miệng đắng mà khô, ruột réo phân nát, tiểu ít, protein niệu lượng lớn, protein huyết tương thấp, chất lưỡi nhợt, rêu vàng mỏng, mạch nhược.
Phương giải: phương này lấy Đảng sâm, Hoàng kỳ, Bạch truật, Phục linh và Phòng phong, Khương hoạt, Độc hoạt, Sài hồ hợp dụng, bổ trung có tán, phát trung có thu, có hiệu quả bỏ khí kiện tỳ vị, thăng dương trừ thấp. TQ có đơn vị báo cáo, dùng thuốc khứ phong điều trị viêm thận protein niệu có hiệu quả. Trương đại sư trải nghiệm thuốc phong bắt buộc cần dùng cùng thuốc bổ tỳ vị mới có hiệu quả, lấy tính phong có thể thắng thấp thăng thanh dương, để hỗ trợ tỳ vận hoá, tỳ kiện vận thì thấp tà trừ mà tinh vi cố nhiếp.
----------------
GIA VỊ BÁT VỊ THẬN KHÍ HOÀN (TRƯƠNG KỲ)
Cấu thành: Thục địa hoàng 20g, Sơn thù du 15g, Sơn dược 20g, Phục linh 20g, Trạch tả 15g, Mẫu đơn bì 15g, Nhục quế 7g, Phụ tử 7g, Thỏ ty tử 20g, Cẩu kỳ tử 20g, Tang phiêu tiêu 15g, Kim anh tử 20g.
Cách dùng: sắc nước uống.
Công hiệu: bổ thận tráng dương nhiếp tinh.
Chủ trị: bệnh thận mạn tính lâu ngày, thận khí bất túc, cố nhiếp thất chức, tinh vi ngoại tiết gây ra protein niệu lâu ngày không khỏi. Chứng thấy eo mỏi vô lực, đầu váng tai ù, di tinh hoạt tiết, thân lưỡi bệu, chất lưỡi hồng, mạch trầm hoặc trầm mà vô lực.
Gia giảm: nếu kèm có tỳ hư, trong phương thêm Đảng sâm, Hoàng kỳ, Liên tử...; nếu lấy thận âm hư biểu hiện làm chủ, chứng thấy miệng khô họng ráo, lòng bàn tay bàn chân nóng, tiểu sắc vàng đỏ, mạch tế sác... phương trên bỏ Phụ tử, Nhục quế, thêm Tri mẫu 20g, Hoàng bá 20g, Nữ trinh tử 15g, Mặc hãn liên 20g.
Phương giải: trong phương Thục địa hoàng, Sơn thù du bổ ích thận âm mà nhiếp tinh khí, Sơn dược, Phục linh kiện tỳ thẩm thấp, Quế Phụ bổ mệnh môn chân hoả mà dẫn hoả quy nguyên, lại thêm Tang phiêu tiêu, Kim anh tử để cố nhiếp tinh khí. Chân âm chân dương trong thận đều được bổ ích, dương chưng âm hoá, thận khí sung đầy, tinh vi được cố, mà các chứng tự tiêu trừ.
--------------
THANH NHIỆT LỢI THẤP GIẢI ĐỘC THANG (TRƯƠNG KỲ)
Cấu thành: Thổ phục linh 25g, Tỳ giải 20g, Bạch hoa xà thiệt thảo 30g, Biển súc 20g, Trúc diệp 15g, Sơn dược 20g, Ý dĩ nhân 20g, Hoạt thạch 20g, Thông thảo 10g, Mao căn 25g, Ích mẫu thảo 30g, Kim anh tử 15g.
Cách dùng: sắc nước uống.
Công hiệu: thanh nhiệt lợi thấp giải độc.
Chủ trị: thấp nhiệt độc tà uẩn kết hạ tiêu, tinh vi ngoại tiết gây ra protein niệu. Lâm sàng chủ yếu gặp trong bệnh thận mạn tính lâu ngày, thuỷ thũng tiêu giảm hoặc không có thuỷ thũng, protein vẫn tiếp tục không mất đi. Chứng thấy eo mỏi eo đau, tiểu vàng đỏ hoặc tiểu vẩn đục, đau họng, miệng đắng miệng khô, chất lưỡi đỏ, rêu trắng nhớt, mạch hoạt sác.
Gia giảm: nếu người bệnh lâu khí hư, có thể thêm Hoàng kỳ 30g, Đảng sâm 20g, phù chính và khứ tà cùng dùng; người đau họng, có thể thêm Sơn đậu căn 20g, Trùng lâu 30g, Huyền sâm 15g, Mạch động 15g.
Phương giải: viêm thận mạn tính lâu ngày thường kèm thấp nhiệt, thấp nhiệt không trừ thì protein niệu không dễ tiêu trừ. Khi ứng dụng dược liệu thanh lợi thấp nhiệt, cần chú ý phòng ngừa khổ hàn thương tỳ, phương này đều là thuốc nhạt thẩm lợi thấp, khiến thanh nhiệt không ngại tỳ, lợi thấp không thương âm, để nhẹ nhàng khéo léo đạt hiệu quả. Kim anh tử là thuốc cố sáp, trong thuốc thanh nhiệt lợi thấp thêm 1 vị thuốc cố sáp, có ý thông trung ngụ tắc. Quan sát lâm sàng, có một số bệnh nhân viêm thận protein niệu thời gian dài không mất, dùng pháp kiện tỳ bổ thận khó có thể hiệu quả, mà do lặp đi lặp lại nhiễm khuẩn, trong lâm chứng xuất hiện một loạt chứng hậu thấp nhiệt, sau khi dùng phương này protein niệu thường có thể biến mất. Nhưng biện biệt chứng thấp nhiệt, nên phân tích từ tỷ trọng nhiệt và thấp, phương này đối với người thấp nặng hơn nhiệt khá tốt, nếu nhiệt nặng hơn thấp, có thể dùng Gia vị bát chính tán điều trị.
-----------------
SƠN DƯỢC CỐ HẠ THANG (TRƯƠNG KỲ)
Cấu thành: Sinh sơn dược 30g, Khiếm thực 15g, Liên tử 15g, Hoàng bá 15g, Xa tiền tử 15g, Sơn thù du 15g, Thỏ ty tử 15g, Tỳ giải 20g, Ích mẫu thảo 20g, Cam thảo 10g.
Cách dùng: sắc nước uống.
Công hiệu: bổ thận kiện tỳ cố nhiếp, thanh lợi thấp nhiệt.
Chủ trị: bệnh thận mạn tính lâu ngày, tỳ thận đều hư, tinh vi bất cố, kèm có thấp nhiệt gây ra protein niệu. Chứng thấy sắc niệu vẩn đục, thuỷ thũng mức độ nhẹ, eo mỏi gối mềm, mệt mỏi vô lực, rêu lưỡi trắng nhớt, mạch tượng trầm hoãn.
Phương giải: phương này chú trọng dùng Sinh sơn dược kiện tỳ cố thận, phụ trợ dùng Khiếm thực, Liên tử kiện tỳ cố nhiếp, Sơn thù du, Thỏ ty tử bổ thận cố tinh, lại thêm Hoàng bá, Xa tiền tử, Tỳ giải, Ích mẫu thảo thanh lợi thấp nhiệt. Bổ trung có thanh, thông bổ kiêm thi, đối với bệnh thận mạn tính thuộc tỳ thận lưỡng hư, mất đi cố nhiếp, kèm có thấp nhiệt là phù hợp.
--------------------
TƯ THẬN THANH NHIỆT HOẠT HUYẾT THANG (TRƯƠNG KỲ)
Cấu thành: Sinh địa hoàng 15g, Thục địa hoàng 15g, Sơn thù du 15g, Sơn dược 15g, Phục linh 15g, Mẫu đơn bì 15g, Trạch tả 15g, Câu kỷ tử 20g, Nữ trinh tử 20g, Tri mẫu 15g, Hoàng bá 15g, Xích thược 20g, Đan sâm 20g.
Cách dùng: sắc nước uống.
Công hiệu: bổ thận âm, thanh hư nhiệt, hoạt huyết khứ ứ.
Chủ trị: bệnh thận mạn tính thận âm bất túc, âm hư hoả vượng, phong tàng thất chức, tinh vi hao dần gây protein niệu. Chứng thấy ep mỏi eo đau, đầu váng tai ù, ngũ tâm phiền nhiệt, tiểu ngắn đỏ, họng khô mà đỏ, lưỡi đỏ ít rêu, mạch tế sác.
Phương giải: phương này là lục vị địa hoàng thang gia vị cấu thành. Lục vị địa hoàng thang tư bổ thận âm, thêm Tri mẫu, Hoàng bá lương huyết thanh nhiệt. Âm hư hoả vượng dễ thiêu đốt mạch lạc, sắc hao âm tân mà khiến khí huyết ngưng trệ, nên thêm Xích thược, Đan sâm để hoạt huyết thông lạc. Các thuốc hợp dụng, khiến âm tân hồi phục, hư nhiệt thanh, khí huyết hành thì phong tàng của thận có lực, tinh vi được cố.
TỰ TẠO THANH NHIỆT LỢI THẤP GIẢI ĐỘC ẨM (CHÂU TRUNG ANH)
Cấu thành: Thổ phục linh 50g, Tỳ giải 20g, Ích mẫu thảo 20g, Biến xúc 20g, Trúc diệp 15g, Sơn dược 20g, Ý dĩ nhân 30g, Hoạt thạch 30g, Bạch mao căn 30g, Quỷ tiễn vũ 15g, Miêu trảo thảo 15g, Kim anh tử 15g.
Cách dùng: sắc nước uống.
Công hiệu: thanh nhiệt lợi thấp giải độc.
Chủ trị: thấp nhiệt độc tà uẩn kết hạ tiêu, tinh vi ngoại tiết gây ra protein niệu.
Phương giải: phương này đều là thuốc nhạt thẩm lợi thấp, khiến thanh nhiệt không ngại tỳ, lợi thấp không thương âm, lấy nhẹ nhàng thẩm thấp mà hiệu quả. Trong phương Thổ phục linh làm quân, dùng để giải độc trừ thấp, <Bản thảo chính nghĩa> nói: Thổ phục linh, lợi thấp khứ nhiệt có thể nhập lạc, sưu trừ uẩn độc của thấp nhiệt". Thần dược Thạch cao, Ý dĩ nhân thanh nhiệt lợi niệu thông lâm, khiến thấp nhiệt theo tiểu tiện mà ra, Bạch mao căn lương huyết, thanh nhiệt của dinh huyết; tá dùng Tỳ giải, Ích mẫu thảo, Biển xúc thanh nhiệt lợi thấp, Quỷ tiễn vũ , Miêu trảo thảo giải độc tán kết, Sơn dược bổ trung ích âm, khiến thanh nhiệt không ngại tỳ, lợi thấp không thương âm; Kim anh tử cố nhiếp, thêm vào trong thuốc thanh nhiệt lợi thấp, ngụ ý thông trung kèm sáp.
-------------
ÍCH PHẾ BỔ THẬN GIẢI ĐỘC LỢI THẤP PHƯƠNG (CHU TRUNG ANH)
Cấu thành: Sinh địa hoàng 30g, Nam sa sâm 15g, Bắc sa sâm 15g, Mạch đông 10g, Ngọc trúc 15g, Thạch hộc 15g, Bạch truật 20g, Sơn dược 30g, Ngọc mễ tu 20g, Thái tử sâm 30g, Ý dĩ nhân 30g, Kim ngân hoa 15g, Liên kiều 15g, Thổ phục linh 30g, Miêu trảo thảo 15g, Quỷ tiễn vũ 15g, Thỏ ty tử 20g, Xa tiền tử 30g, Hoàng kỳ 30g.
Cách dùng: sắc nước uống.
Công hiệu: kiện tỳ bổ thận, thu liễm cố sáp.
Chủ trị: phế thận lưỡng hư, thấp độc xâm dâm gây viêm thận mạn tính, protein niệu lâu ngày không khỏi.
Phương giải: trong phương quân dược Hoàng kỳ, Sơn dược, Sinh địa hoàng, Thái tử sâm bổ phế ích thận, kim thuỷ tương sinh; Thổ phục linh, Ý dĩ nhân, Xa tiền tử thanh nhiệt lợi thấp, giải độc tiêu thũng. Thần dùng Nam sa sâm, Bắc sa sâm, Mạch đông, Ngọc trúc, Thạch hộc tư dưỡng phế âm, Thỏ ty tử bổ thận dương, ngụ ý dương trung cầu âm. Tá dược Kim ngân hoa, Liên kiều, Miêu trảo thảo, Quỷ tiễn vũ, Ngọc mễ ty thanh nhiệt giải độc, lợi niệu trừ thấp. Toàn phương phối hợp, khiến kim thuỷ tương sinh, giải độc lợi thấp, thì các chứng có thể khỏi, là phương hay để trị phế thận lưỡng hư, thấp nhiệt xâm dâm.
----------
PROTEIN CHUYỂN ÂM PHƯƠNG (LÝ TẾ NHÂN)
Cấu thành: Hoàng kỳ 50g, Lộ đảng sâm 20g, Bạch truật sao 15g, Xuyên tục đoạn 15g, Kim anh tử 15g, Kha tử nhục 15g, Phúc bồn tử 15g, Ô mai thán 15g, Xuyên tỳ giải 15g, Thạch vĩ 20g, Bạch mao căn 20g, Mặc hãn liên 15g.
Cách dùng: sắc nước uống.
Công hiệu: kiện tỳ bổ thận, thu liễm cố sáp.
Chủ trị: protein do viêm thận cấp mạn tính, hội chứng thận hư.
Phương giải: protein là chứng trạng thường thấy của viêm thận cấp mạn tính, hội chứng thận hư, trong đông y tuy không có luận thuật chuyên môn về protein niệu, nhưng do lượng lớn protein trong cơ thể mất đi khiến cho protein huyết tương giảm sút, thì có thể xuất hiện chứng trạng toàn thân phù thũng, khí đoản vô lực, đau thắt lưng..., nên cũng thuộc phạm trù thuỷ thũng, hư lao, yêu thống của đông y. Do người bệnh viêm thận mạn tính làm sao cải thiện công năng thận và tiêu trừ protein niệu, quan trệ trực tiếp đến phát triển và dự hậu của bệnh này. Để khống chế protein niệu, người bệnh cần thường xuyên sử dụng hooc môn và thuốc ức chế miễn dịch..., như vậy không thể tránh khỏi mang lại phản ứng không tốt nhất định, thậm chí gây ra chứng thứ phát nghiêm trọng, khiến bệnh tình tăng nặng.
Hội chứng thận hư là một nhóm chứng hậu lâm sàng do nhiều loại bệnh cầu thận gây ra, hoàn toàn không phải là một bệnh độc lập. Đặc trưng lâm sàng của nó là: protein niệu lượng lớn (>=3,5g/24h), chứng protein huyết tương thấp (<30g/L) cùng chứng mỡ máu cao và thuỷ thũng. Protein niệu lượng lớn và chứng protein huyết tương thấp là điều kiện chẩn đoán bắt buộc phải có, protein niệu nghiêm trọng (>=3,5g/24h) là biểu hiện của hội chứng thận hư. Do lượng lớn protein niệu như vậy, không bắt gặp trong bệnh cầu thận khác. Thời gian dài mất đi lượng lớn protein niệu, cuối cùng tạo thành chứng protein huyết tương thấp. Đồng thời, xuất hiện của thuỷ thũng và mức độ nghiêm trọng của nó có mối quan hệ trực tiếp với chứng protein huyết tương thấp. Khi nồng protein huyết tương giảm sút, cơ thể thông qua một loạt tự điều tiết để tránh phát sinh thuỷ thũng, chỉ có khi áo suất thẩm thấu keo của huyết tương giảm sút nghiêm trọng, thuỷ thũng mới xuất hiện. Thuỷ thũng thường dần phát triển, thường thấy ở vùng mắt cá, người nghiệm trọng có thể có tràn dịch màng phổi và bụng. Đông y cho rằng tỳ khí tán tinh, tưới tắm toàn thân. Tỳ hư thì không thể vận hoá thuỷ cốc tinh vi, đưa lên đến phế mà phân bố toàn thân, thuỷ cốc tinh vi càng cùng thấp trọc hỗn tạp, theo tiểu tiện mà tiết ra; thận chủ tàng tinh, thận khí bất cố, tác dụng khí hoá chưng đằng do đó giảm sút, khiến tinh khí tiết xuống, ra theo tiểu tiện mà thành protein niệu. Hai đầu như vậy, có thể thấy tỳ thận bất túc là mấu chốt sản sinh viêm thận mạn protein niệu. Lý đại sư căn cứ nguyên nhân bệnh cơ này, tự sáng tạo Protein chuyên âm phương, trong phương chú trọng dùng Hoàng kỳ, Lộ đảng sâm, Bạch truật sao kiện tỳ ích khí là thuộc chính điều trị bản; phụ trợ dùng Xuyên tục đoạn, Kim anh tử, Kha tử nhục, Phúc bồn tử, Ô mai thán bổ thận tráng yêu, thu liễm cố sáp, để phòng mất đi lượng lớn protein niệu; Xuyên tỳ giải, Thạch vĩ lợi thấp thanh nhiệt, phân thanh tiết trọc; Bạch mao căn, Mặc hãn liên lương huyết trị huyết điều trị tiêu. Tổng hợp cả phương cùng có hiệu qảu kiện tỳ bổ thận, thu liễm cố sáp. Khi ứng dụng lâm sàng lại kết hợp bệnh tình cụ thể, biến hoá điều trị.
Stam từ Bs Dũng
* Chia sẻ về tường để đọc sau
Để đặt lịch khám tại ĐÀO GIA Y VIỆN, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE/ZALO: 0967536386 hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY.
Quý khách có thể xem thêm bài viết về Ôn Kinh Thang - Trị Bệnh Phụ Khoa đau bụng kinh, máu đen cục, chậm con - ĐÀO GIA Y VIỆN
0 Nhận xét